Xuất khẩu thép Việt Nam đứng trước nhiều cơ hội và thách thức

Kinh tế - Đầu tư Thị trường

Ngành công nghiệp thép có một vai trò đặc biệt quan trọng đối với định hướng phát triển kinh tế của Việt Nam. Là một ngành công nghiệp được xem như nền tảng của đất nước, là nguyên liệu đầu vào thiết yếu đối với các ngành kinh tế mũi nhọn khác như xây dựng, công nghiệp phụ trợ, cơ khí chế tạo,…, ngành thép Việt Nam luôn được đầu tư và hiện đại hoá kịp thời.

Trong giai đoạn từ năm 2016 đến nay, nhu cầu thép trong nước liên tục tăng ở mức hai con số sau mỗi năm. Đây được xem là kết quả khả quan để ngành thép đặt ra những mục tiêu xa hơn. Và một trong số đó là mở rộng hơn nữa thị trường ở nước ngoài.

Không chỉ chủ yếu phục vụ các doanh nghiệp trong nước, ngành thép Việt Nam còn hướng tới tăng sản lượng xuất khẩu ra thị trường nước ngoài trong những tháng tới khi tình hình dịch bệnh Covid-19 được ổn định. Nhìn vào những con số thống kê mức lợi nhuận thời gian vừa qua, ngành thép Việt Nam tự tin có thể bứt phá để đạt được những kết quả to lớn hơn đối với xuất khẩu trong tương lai.

Giá các nguyên liệu thô vẫn còn ở mức rất cao

Theo Hiệp hội Thép Việt Nam (VSA), thị trường thép 6 tháng đầu năm 2021 đã phục hồi tích cực. Tăng trưởng sản xuất thép thô toàn cầu tăng 14,5% so với cùng kỳ 2020. Tuy nhiên, giá cả nguyên liệu sản xuất thép và thép thành phẩm diễn biến phức tạp. Nó có xu hướng tăng kể từ cuối năm 2020.

Hầu hết nguyên liệu như: phôi, thép phế liệu, than mỡ, quặng sắt… đều tăng giá mạnh. Nửa đầu tháng 7/2021, thị trường nguyên liệu sản xuất thép vẫn tiếp đà tăng. Đơn cử như giá điện cực graphite trong 6 tháng qua tăng rất mạnh. Giá than điện cực của Trung Quốc cũng tăng khoảng 30%.

Giá các nguyên liệu thô vẫn còn ở mức rất cao

Theo phản ánh của nhiều DN, giá quặng sắt đã tăng gấp hơn 2 lần trong năm 2020. Nó trở thành mặt hàng có mức tăng giá mạnh nhất trên toàn cầu năm thứ hai liên tiếp. Trong nửa đầu năm 2021, giá quặng sắt vẫn tiếp tục đà tăng và chưa có dấu hiệu dừng lại. Dự báo giá nguyên liệu sẽ còn tăng nữa trong những tháng cuối năm 2021. Nguyên nhân vì các nước đều lo ngại nguồn cung bị gián đoạn do dịch Covid-19.

Các DN ngành thép lo ngại như vậy đều có lý do. Vì giá quặng sắt chiếm 30 – 35% chi phí để sản xuất thép. Vì vậy, khi giá nguyên liệu tăng sẽ ảnh hưởng đến giá thành sản phẩm và lợi nhuận của DN.

Đại diện CTCP Đại Thiên Lộc chia sẻ, giá nguyên liệu đầu vào đang tăng mạnh. Thời gian tới, nếu Trung Quốc tăng mức hoàn thuế xuất khẩu một số sản phẩm thép lên 13% thì giá thép cán nóng có thể vọt lên 900 USD/tấn.

Những rủi ro pháp lý đối với xuất khẩu thép của Việt Nam

Bị kiện phòng vệ thương mại

Theo VCCI, chỉ tính riêng năm 2020, sản phẩm thép xuất khẩu phải đối mặt với 13 vụ việc điều tra, áp dụng phòng vệ thương mại. Trong đó, có 9 vụ việc chống bán phá giá; 1 vụ việc chống lẩn tránh thuế chống bán phá giá; 3 vụ việc điều tra chống trợ cấp. Các sản phẩm bị điều tra gồm: thép cốt bê tông, thép không gỉ cán nguội, thép mạ nhôm, ống thép hàn không gỉ, thép mạ nhôm kẽm,… Phần lớn các quốc gia khởi xướng điều tra phòng vệ thương mại đều là các thị trường chính trong xuất khẩu thép của Việt Nam. Họ hầu như cũng có chung hiệp định thương mại tự do (FTA) với Việt Nam. Có thể kể đến như Canada, Australia, EU…

Cục trưởng Cục Phòng vệ thương mại (Bộ Công Thương) Lê Triệu Dũng cho biết; trong những năm gần đây, số lượng các vụ việc phòng vệ thương mại khởi xướng với hàng hóa xuất khẩu của Việt Nam có xu hướng ngày càng gia tăng. Tính đến nay, Việt Nam đã bị các nước điều tra 203 vụ việc phòng vệ thương mại. Trong đó, sản phẩm thép vẫn là sản phẩm bị điều tra nhiều nhất, chiếm gần 40% các vụ việc. Điều này là do các nước đều có chủ trương phát triển ngành sản xuất nội địa trong khi thép là ngành công nghiệp cơ bản. Bên cạnh đó, thép cũng là đầu vào của nhiều ngành khác nhau. Cho nên, khi khởi kiện, áp thuế cho sản phẩm thép tức là gián tiếp bảo hộ ngành hạ nguồn.

Hiệu ứng domino trong xuất khẩu thép

Hiệu ứng domino trong xuất khẩu thép

Trung Quốc hiện là quốc gia sản xuất thép lớn nhất thế giới. Điều này đồng nghĩa với việc thép Trung Quốc là đối tượng của nhiều vụ việc phòng vệ thương mại. Do đó, các sản phẩm xuất khẩu của Việt Nam cùng chủng loại với họ cũng có nhiều khả năng bị các nước chú ý điều tra để chống lẩn tránh thuế. Đó là chưa kể, ngành thép Việt Nam hiện đang phụ thuộc phần lớn vào nguyên liệu nhập khẩu. Vì thế, trong một số vụ việc chúng ta bị các nước coi là “lẩn tránh” biện pháp phòng vệ thương mại. Lý do là vì sử dụng thép nguyên liệu nhập khẩu từ Trung Quốc.

“Việt Nam thường xuyên bị kiện chung với một số nước khác như Trung Quốc, Ấn Độ… Đây là các nước xuất khẩu thép lớn trên thế giới. Do đó, khi có sự nghi ngờ, cáo buộc với một trong số các nước nêu trên; cơ quan điều tra nước nhập khẩu thường có xu hướng kiện cả Việt Nam. Ngoài ra, việc Việt Nam bị một nước điều tra có thể dẫn tới “hiệu ứng domino”. Tức là các nước khác cũng tiếp tục kiện Việt Nam với cùng sản phẩm” – ông Lê Triệu Dũng phân tích.

Các doanh nghiệp thép cần có các biện pháp ứng phó rủi ro

Nhiều chuyên gia cho rằng, việc quan trọng là phải tiếp tục tuyên truyền phổ biến quy định về phòng vệ thương mại đến các DN. Từ đó, giúp họ có các kỹ năng cơ bản đủ để sử dụng hiệu quả công cụ này.

Giám đốc VCCI Nguyễn Thị Thu Trang khẳng định: “Nếu xử lý, ứng phó với các vụ việc phòng vệ thương mại đạt kết quả tích cực; DN Việt Nam sẽ không bị áp thuế hoặc áp thuế thấp, giảm tác động tiêu cực tới xuất khẩu. Thậm chí trong một số trường hợp, các DN còn tận dụng được mức thuế phòng vệ thương mại thấp để tăng trưởng xuất khẩu”.

Các doanh nghiệp thép cần có các biện pháp ứng phó rủi ro

Bộ Công Thương đang xây dựng hệ thống cảnh báo sớm để theo dõi thông tin, cập nhật số liệu. Việc này giúp đưa ra cảnh báo kịp thời cho DN xuất khẩu có các giải pháp phòng ngừa. Bộ cũng khuyến cáo, trong quá trình có vụ kiện phòng vệ thương mại xảy ra; quan trọng nhất là DN cần chủ động tham gia, xử lý. Sự hợp tác giữa các bộ ngành và VSA khi xảy ra vụ việc là vô cùng quan trọng. Nó giúp các DN đáp ứng đúng quy định của nước nhập khẩu; kịp thời có ý kiến để bảo vệ DN xuất khẩu. Đồng thời, giúp xem xét khả năng khiếu nại ở WTO.

Ngành thép có thể tận dụng các lợi thế từ FTA

Ông Lê Triệu Dũng cho rằng, trong quá trình xuất khẩu, DN luôn theo sát và thường xuyên trao đổi thông tin với đối tác nhập khẩu. Nhất là những thông tin về rào cản thương mại có nguy cơ áp dụng lên hàng hóa nhập khẩu. Cùng với đó, DN cần đa dạng hóa thị trường xuất khẩu, đa dạng hóa sản phẩm xuất khẩu. Không nên quá tập trung vào một thị trường để giảm thiểu rủi ro.

Về vấn đề giá nguyên liệu đầu vào tăng cao, chuyên gia kinh tế Nguyễn Trí Hiếu nhận định; cơ hội từ hội nhập và việc thực thi các FTA thế hệ mới như: Hiệp định Đối tác Toàn diện và Tiến bộ xuyên Thái Bình Dương (CPTPP); Hiệp định Thương mại tự do Việt Nam – Liên minh châu Âu (EVFTA) không chỉ gỡ bỏ thuế quan cho sản phẩm thép mà còn mở rộng thị trường nhập khẩu nguyên liệu từ các quốc gia có lợi thế về quặng sắt như Australia.

Ngoài ra, hơn 50% lượng sắt thép phế liệu nhập khẩu làm nguyên liệu sản xuất phôi cũng là từ các nước thuộc CPTPP. Do đó, DN ngành thép có thể tận dụng cơ hội; mở rộng thị trường và đối tác để chủ động hơn trong vấn đề nguồn nguyên liệu đầu vào.

Để lại một bình luận

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *